VIẾNG LĂNG BÁC
Viễn Phương
I. Vài nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
- Viễn Phương (1928 - 2005), quê ở tỉnh An Giang. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, ông hoạt động ở Nam Bộ. Ông là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nước.
- Thơ ông thường nhỏ nhẹ, giàu tình cảm, giàu chất mộng mơ ngay trong hoàn cảnh khắc nghiệt của cuộc sống chiến trường.
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ
- Bài thơ được viết vào tháng 4.1976, một năm sau ngày đất nước thống nhất. Đó cũng là khi lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa khánh thành.
- Viễn Phương là một người con của miền Nam, suốt 30 năm hoạt động và chiến đấu ở chiến trường Nam Bộ. Cũng như đồng bào và chiến sĩ miền Nam, nhà thơ mong mỏi được một lần ra thăm Bác. Năm 1976, Viễn Phương vinh dự có mặt trong đoàn đại biểu các chiến sĩ, đồng bào miền Nam được ra viếng Bác. Xúc động tận đáy lòng, thay mặt đồng bào miền Nam, nhà thơ viết bài thơ Viếng lăng Bác.
- Bài thơ được in trong tập Như mây mùa xuân (1978)
b. Bố cục
- Cảm hứng bao trùm bài thơ là niềm xúc động thành kính thiêng liêng, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn đau xót khi nhà thơ từ miền Nam ra thăm lăng Bác.
- Mạch vận động cảm xúc của bài thơ được tổ chức theo trình tự của cuộc viếng thăm, thời gian kết hợp với không gian.
II. Đọc - hiểu
1. Cảm xúc của nhà thơ khi vừa đặt chân đến lăng Bác (Khổ 1)
* Câu 1:
- Cách xưng hô “con - Bác” rất ngọt ngào, thể hiện sự gần gũi, thân thương, ấm áp như ruột thịt giữa đồng bào miền Nam với Bác. Đây cũng là cách xưng hô thường được các nhà thơ sử dụng khi thể hiện tình cảm với vị cha già dân tộc:
Đất nước đẹp vô cùng nhưng Bác phải ra đi
Cho con làm sóng dưới thân tàu đưa tiễn Bác.
(Chế Lan Viên)
Cho con núi rộng, sông dài
Cho con lưỡi kiếm đã mài nghìn năm.
(Thu Bồn)
- Hai tiếng “miền Nam” không chỉ có tính chất định danh mà còn gợi bao cảm xúc. Người con ở tuyến đầu Tổ quốc đang tìm về với cội nguồn, về với người cha già dấu yêu. Hai tiếng “miền Nam” còn gợi về tình cảm sâu nặng thiêng liêng giữa miền Nam với Bác:
+ Sinh thời, Bác Hồ luôn dành cho đồng bào miền Nam một tình cảm sâu nặng. Bác nói: “Miền Nam luôn ở trong trái tim tôi. Ngày nào miền Nam chưa được giải phóng thì ngày đó tôi còn ăn không ngon, ngủ không yên”. Còn đồng bào miền Nam thì cũng thương nhớ Bác khôn nguôi, mong chờ ngày đất nước độc lập để đón Bác vào thăm
+ Nhà thơ Tố Hữu đã diễn tả rất xúc động tình cảm thiêng liêng này:
Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha.
- Nhà thơ dùng từ “thăm” thay cho từ “viếng”:
+ “viếng” là chia buồn với thân nhân người đã khuất
+ “thăm” là gặp gỡ, trò chuyện với người đang sống
Nhà thơ sử dụng phép tu từ nói giảm, nói tránh nhằm giảm nhẹ nỗi đau mất mát, khẳng định Bác vẫn còn mãi trong lòng dân tộc Việt Nam, đồng thời gợi sự thân mật, gần gũi: con về thăm cha, con về thăm Bác, thăm chỗ Bác nằm, thăm nơi Bác nghỉ để thỏa lòng khát khao, mong nhớ bấy lâu.
à Câu thơ mở đầu như một lời giới thiệu, lời lẽ giản dị nhưng đã dồn nén bao cảm xúc.
* Câu 2:
- Hình ảnh đầu tiên mà tác giả cảm nhận được là hàng tre bên lăng. Đây là một hình ảnh thực, một nét đặc trưng của cảnh quang lăng Bác, cũng là một hình ảnh thân thuộc của làng quê, đất nước Việt Nam.
- Hình ảnh thơ còn góp phần thể hiện cảm xúc: chi tiết “hàng tre bát