NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
Dạng đề nghị luận văn học thường gặp: Phân tích / Cảm nhận => Dạng đề cơ bản nhất.
I. CÁC BƯỚC LÀM BÀI DẠNG ĐỀ PHÂN TÍCH, CẢM NHẬN
1. Bước 1: Phân tích đề (2 phút - gạch chân vào đề)
- Cách làm: Gạch chân vào đề:
- Vấn đề nghị luận: đề bài yêu cầu làm rõ điều gì? (thường nằm sau chữ “về...”, “cảm nhận của em về…”, “phân tích về…”)
- Phạm vi phân tích: những khổ thơ nào, đoạn trích nào, nhân vật nào… cần phân tích
- 2. Bước 2: Lập ý (5 phút - Ghi nhanh ra nháp hoặc gạch vào đề)
- Cách làm:
- Dàn ý cơ bản của dạng đề phân tích:
Phần | Nội dung |
Mở bài | Dẫn dắt + Đặt vấn đề + Đoạn trích/ nhân vật |
Thân bài | Luận điểm 1: Khái quát Luận điểm 2: Phân tích, làm sáng tỏ giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của đoạn trích/ đặc điểm, ý nghĩa hình tượng nhân vật Luận điểm 3: Khái quát vấn đề |
Kết bài | Khẳng định lại vấn đề + Cảm nhận của bản thân |
- 3. Bước 3: Viết bài (65 đến 70 phút - trình bày sạch sẽ, cẩn thận)
Trình tự viết: Viết lần lượt từng phần MB, TB, KB theo dàn ý cơ bản đã nêu ở bước 2
- 4. Bước 4: Đọc lại bài (3 phút - nếu còn thời gian)
- Chú ý đọc lại những câu mở đoạn, kết đoạn xem đã viết đúng, rõ ràng chưa.
- Soát lỗi chính tả.
- Nếu có lỗi cần sửa thì gạch đi sửa lại thật sạch sẽ.
- II. PHƯƠNG PHÁP VIẾT TỪNG PHẦN NHỎ TRONG BÀI VIẾT
- 1. PHƯƠNG PHÁP VIẾT MỞ BÀI (5 phút)
a. Cấu trúc
Mở bài = Dẫn dắt + Nêu vấn đề và phạm vi phân tích
- Cách viết
- Mở bài trực tiếp: giới thiệu tác giả, tác phẩm => Nêu vấn đề nghị luận và phạm vi phân tích.
- Mở bài gián tiếp: Dẫn dắt từ đề tài/phong cách sáng tác/nhận định/cảm nhận cá nhân… + Nêu vấn đề và phạm vi phân tích
Dưới đây là một số cách dẫn dắt:
- Cách 1: Dẫn dắt từ đề tài sáng tác
+ Trình tự viết: Nêu tên đề tài => dẫn ra khoảng 2 đến 3 tác phẩm thuộc đề tài đó => Dẫn vào tác phẩm => Dẫn vào vấn đề cần nghị luận
+ Công thức: Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, + tên đề tài + không biết tự bao giờ đã trở thành cội nguồn sáng tác cho biết bao người nghệ sĩ. Chúng ta từng biết tới...+ trích dẫn 2 - 3 tác phẩm, tác giả tiêu biểu viết về đề tài đó. Và khi đến với những sáng tác của + tên tác giả, chúng ta lại thêm một lần nữa được nhìn về một tác phẩm nổi bật thuộc đề tài này đó là + tên tác phẩm => Nêu vấn đề cần nghị luận.
Hoặc: Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, + tên đề tài + không biết tự bao giờ đã trở thành cội nguồn sáng tác cho biết bao người nghệ sĩ. Và + tên tác giả + là một trong những cây bút tiêu biểu sáng tác về đề tài này. Tên tác phẩm + của ông/bà + đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc bằng những trang thơ/trang văn đậm màu sắc + đặc điểm của đề tài trong tác phẩm của họ => Nêu vấn đề
+ VD: Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, đề tài người lính không biết tự bao giờ đã trở thành cội nguồn sáng tác cho biết bao người nghệ sĩ. Và Phạm Tiến Duật là một trong những cây bút tiêu biểu sáng tác về đề tài này. Thi phẩm“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc bằng những trang thơ đậm màu sắc trẻ trung, sôi nổi, ngang tàng mà sâu sắc. => Nêu vấn đề
- Cách 2: Dẫn dắt từ phong cách sáng tác của tác giả
+ Trình tự viết: Đi sâu vào phong cách của tác giả => Tác phẩm => Nêu vấn đề
|
+ Công thức: Mỗi người nghệ sĩ trong quá trình sáng tác đều có một chất giọng của riêng mình. Nếu + 1 số tác giả và phong cách tương ứng + thì + tác giả chính + lại ghi dấu ấn trên thi đàn/văn đàn bằng chất giọng + phong cách của tác giả chính. Tên tác phẩm + chính là kết tinh của phong cách ấy. => nêu vấn đề.
+ Ví dụ: Mỗi người nghệ sĩ trong quá trình sáng tác đều có một chất giọng của riêng mình. Nếu Kim Lân có chất văn giản dị, chân chất, mộc mạc khi viết về người nông dân của làng quê Bắc Bộ thì Nguyễn Quang Sáng lại ghi dấu ấn trên văn đàn bằng chất giọng đôn hậu, hào sảng đặc trưng cho người nông dân Nam Bộ. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” chính là kết tinh cho phong cách độc đáo ấy của Nguyễn Quang Sáng. => nêu vấn đề.
- Cách 3: Dẫn dắt từ nhận định, đoạn thơ có nội dung phù hợp
+ Trình tự: Trích nhận định/ đoạn thơ => Khái quát nội dung của nhận định/đoạn thơ đó => Nêu tác giả tác phẩm => Nêu vấn đề
+ Công thức 1 (Nhận định): “Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói của tình cảm con người, là sự giãi bày và gửi gắm tâm tư” (Lê Ngọc Trà). Phải chăng tác phẩm nghệ thuật chính là cầu nối để tác giả bộc lộ cảm xúc và người đọc từ đó được đồng cảm, thấu hiểu và sẻ chia. Tác giả + cũng đã mượn trang thơ/trang văn + tên tác phẩm + để bộc lộ/gửi gắm những tâm tư, tình cảm của mình về + nội dung chính của tác phẩm => Nêu vấn đề nghị luận
=> Cách này dùng cho các tác phẩm thơ và văn xuôi giàu tình cảm, cảm xúc như “Đồng chí”, “Bếp lửa”, “Ánh trăng”, “Mùa xuân nho nhỏ”, “Viếng Lăng Bác”, “Sang thu”, “Nói với con”, “Làng”, “Chiếc lược ngà”...
|
VD: “Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói của tình cảm con người, là sự giãi bày và gửi gắm tâm tư” (Lê Ngọc Trà). Phải chăng tác phẩm nghệ thuật chính là cầu nối để tác giả bộc lộ cảm xúc và người đọc từ đó được đồng cảm, thấu hiểu và sẻ chia. Nhà thơ Bằng Việt cũng đã mượn trang thơ “Bếp lửa” để gửi gắm những tâm tư, tình cảm của mình về tình bà cháu hay rộng hơn là tình yêu đối với gia đình, với quê hương, xứ sở. => Nêu vấn đề nghị luận.
+ Công thức 2 (nhận định): “Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do chính cuộc sống viết ra” (Andecxen). Tên tác giả + cũng đã xuất phát từ những kỉ niệm / giá trị thực trong đời sống để rồi viết lên một câu chuyện đẹp mang tên + tên tác phẩm. Tác phẩm đã gây ấn tượng trong lòng bạn đọc bởi + nội dung đặc sắc của tác phẩm. => Nêu vấn đề.
=> Cách này áp dụng cho các tác phẩm truyện
VD: “Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do chính cuộc sống viết ra” (Andecxen). Nhà văn Nguyễn Thành Long cũng đã xuất phát từ những giá trị thực trong đời sống để rồi viết lên một câu chuyện đẹp mang tên “Lặng lẽ Sa Pa”. Tác phẩm đã gây ấn tượng trong lòng bạn đọc bởi vẻ đẹp phẩm chất của những con người trẻ tuổi, trẻ lòng luôn biết suy nghĩ và cống hiến cho Tổ quốc. => Nêu vấn đề.
+ Công thức 3 (đoạn thơ): Tôi vẫn còn nhớ nhà thơ Chế LAn Viên từng viết :