SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC VÀ CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN TRONG PHƯƠNG THỨC PHẢN ÁNH
Sơ lược về chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn
- Khái niệm
1.Chủ nghĩa hiện thực là thuật ngữ dùng để chỉ một phương pháp nghệ thuật, một trào lưu văn học, đó là chủ nghĩa hiện thực phê phán. Chủ nghĩa hiện thực phê phán là phản ánh hiện thực với cảm hứng phân tích phê phán hiện thực (thuật ngữ này được Macxim Gorki sử dụng đầu tiên). Đây là trào lưu văn học lớn xuất hiện vào những năm 30- 40 của thế kỷ XIX. Những đại biểu xuất sắc của trào lưu này là Banzăc, Xtăngđan, Gôgôn, LépTônxtôi, Đôtxtôiepxki…
- 2. Chủ nghĩa lãng mạn là một trào lưu văn học xuất hiện ở Tây Âu sau Cách mạng tư sản Pháp 1789 với các đại diện tiêu biểu: Victo Huy go, Satôbriăng, Muytxê, Lamactin, Puskin, Bai rơn…Đây cũng là thuật ngữ chỉ một phương pháp sáng tác thiên về tái tạo hiện thực, coi trọng yếu tố chủ quan của người nghệ sĩ (lãng mạn trong tiếng Hán có nghĩa là sóng tràn bờ).Chủ nghĩa lãng mạn còn là một khuynh hướng thẩm mỹ được khơi nguồn từ sự khẳng định cái tôi cá nhân cá thể được giải phóng về tình cảm, cảm xúc và trí tưởng tượng. Nó phá vỡ tính duy lý, tính quy phạm mực thước của văn chương cổ điển. Nó thích hợp với công chúng thanh niên vì tuổi trẻ nói chung giàu nhiệt tình và mộng mơ, thích những điều mới lạ, độc đáo, khác thường.
II.Khuynh hướng hiện thực và lãng mạn trong văn học Việt Nam.
1.Văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930 – 1945.
- Những tiền đề chính trị xã hội, văn hoá tạo nên cơ sở cho sự xuất hiện văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930 – 1945.
Sau khi xâm lược thực dân Pháp ra sức củng cố địa vị thống trị, chúng bắt tay khai thác thuộc địa đẩy dân ta lún sâu hơn cảnh bần cùng. Tiếp đó, chúng ra sức bóc lột dân ta để bù lại những thiệt hại to lớn do cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 gây ra đẩy nền kinh tế Việt Nam vào tới chỗ điêu đứng: sản xuất bị đình đốn, ngân hàng rút bớt giấy bạc đẩy nông dân và công thương đến chỗ phá sản, vỡ nợ thất nghịêp ngày càng tăng, hạn hán lụt lội liên tiếp xảy ra, thuế khoá nặng nề, đói trầm trọng, nhân dân bị bóc lột đến tận xương tuỷ trong khi đó những ông chủ bà chủ sống xa hoa, mâu thuẫn dân tộc và thực dân Pháp, nông dân và địa chủ ngày càng sâu sắc.
Xã hội Việt Nam có sự biến đổi: đô thị mở rộng, thi trấn mọc lên, quan hệ xstb hình thành, cá nhân trở thành một thực thể, văn học Việt Nam dần dần thoát khỏi ảnh hưởng của văn hoc Trung Quốc, bắt đầu tiếp xúc với nền văn học phương Tây.
Xã hội Việt Nam lúc ấy chịu ảnh hưởng của rất nhiều luồng tư tưởng. Tư tưởng phong kiến được thực dân Pháp ra sức khuyến khích: suy tôn Khổng giáo, bảo tồn quốc hồn quốc tuý, kêu gọi trở về với nền văn học cũ với mục đích triệt tiêu tinh thần đấu tranh của nhân dân ta. Tư tưởng tư sản với hai chiều hướng tich cực và tiêu cực: tiêu cực ở chỗ chịu ảnh hưởng của khuynh hướng duy tâm tư sản trong triết học của Frơt, Nisơ; tích cực là chịu ảnh hưởng của khuynh hướng dân chủ tư sản qua một số tác phẩm của các nhà văn hiện thực của Pháp, của thế giới và tiếp thu triết học duy vật biện chứng Rutxô, Điđơrô…Tư tưởng Mác xit và tinh thần nhân văn nhân đạo: hạt nhân là cái nhìn biện chứng khoa học góp phần hình thành thế giới quan tiến bộ thôi thúc các nhà văn tìm hướng giải phóng cho con người mở ra cách nhìn mới, cảm thông, bênh vực, ca ngợi con người.
Chủ nghĩa hiện thực Việt Nam nảy sinh từ hoàn cảnh xã hội, lịch sử văn hóa đó. Nó tiếp thu thành tựu vĩ đại của trào lưu hiện thực phê phán thế giới song nó đi theo con đường riêng.
b.Quá trình phát triển của văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930 – 1945
*Chặng thứ nhất 1930-1935
Xuất hiện một số cây bút thu hút được sự chú ý của độc giả. Nguyễn Công Hoan với tập truyện “Người ngựa ngựa người” (1934), Kép Tư Bền (1935), Vũ Trọng Phụng với hai phóng sự “Cạm bẫy người” (1933), “Kĩ nghệ lấy Tây” (1934); Tam Lang với phóng sự “Tôi kéo xe” (1935), truyện ngắn “Một đêm trước”; Ngô Tất Tố với “Giao cầu thuyên tán”; Tú Mỡ với tập thơ trào phúng “Dòng nước ngược”. Nguyễn Công Hoan là đại biểu xuất sắc nhất.
Các tác phẩm của chủ nghĩa hiện thực phê phán thời kì này đã toát lên tinh thần phê phán: phê phán tính chất bất công, vô nhân đạo của xã hội; bộc lộ sự cảm thông, thương xót đối với các nạn nhân của xã hội.
Hạn chế: nội dung phản ánh hiện thực của các tác phẩm thời kì này còn hạn hẹp, chưa sâu sắc, chỉ mới phản ánh hiện tưọng nổi lên trên bề mặt của xã hội chưa tập trung vào mâu thuẫn cơ bản của xã hội, tính chất chiến đấu chưa cao, mục đích phê phán chưa thật chính xác, thế giới nhân vật mới tập trung vào dân nghèo, lưu manh thành phố. Nhiều tác phẩm chỉ mới có tính chất ghi chép, tình cảm của các nhà văn đối với người nghèo chưa được sâu sắc, cái nhìn còn có vẻ khinh bạc, một vài phóng sự chịu ảnh hưởng nặng nề của chủ nghĩa tự nhiên…