LÃO HẠC
Nam Cao
Lão Hạc thổi cái mồi rơm, châm đóm. Tôi đã thông điếu và bỏ thuốc rồi. Tôi mời lão hút
trước. Nhưng lão không nghe…
- Ông giáo hút trước đi.
Lão đưa đóm cho tôi…
- Tôi xin cụ.
Và tôi cầm lấy đóm, vo viên một điếu. Tôi rít một hơi xong, thông điếu rồi mới đặt vào lòng
lão. Lão bỏ thuốc, nhưng chưa hút vội. Lão cầm lấy đóm, gạt tàn, và bảo:
- Có lẽ tôi bán con chó đấy, ông giáo ạ!
Lão đặt xe điếu, hút. Tôi vừa thở khói vừa gà gà đôi mắt của người say, nhìn lão, nhìn để làm
ra vẻ chú ý đến câu nói của lão đó thôi. Thật ra thì trong lòng tôi rất dửng dưng. Tôi nghe câu
ấy đã nhàm rồi. Tôi lại biết rằng: Lão nói là nói để đó đấy thôi, chẳng bao giờ lão bán đâu.
Vả lại, có bán thật nữa thì đã sao? Làm quái gì một con chó mà lão có vẻ băn khoăn quá
thế!...
Lão hút xong, đặt xe điếu xuống, quay ra ngoài, thở khói. Sau một điếu thuốc lào, óc người
ta tê dại đi trong một nỗi đê mê nhẹ nhõm. Lão Hạc ngồi lặng lẽ, hưởng chút khoái lạc con
con ấy. Tôi cũng ngồi lặng lẽ. Tôi nghĩ đến mấy quyển sách quý của tôi. Tôi quý chúng có lẽ
còn hơn những ngón tay tôi. Hồi bị ốm nặng ở Sài Gòn, tôi bán gần hết cả áo quần, nhưng
vẫn không chịu bán cho ai một quyển. Ốm dậy, tôi về quê, hành lí chỉ vẻn vẹn có một cái va
li đựng toàn những sách. Ôi những quyển sách rất nâng niu! Tôi đã nguyện giữ chúng suốt
đời, để lưu lại cái kỉ niệm một thời chăm chỉ, hăng hái và tin tưởng đầy những say mê đẹp và
cao vọng; mỗi lần mở một quyển ra, chưa kịp đọc dòng nào, tôi đã thấy bừng lên trong lòng
tôi như một rạng đông, cái hình ảnh tuổi hai mươi trong trẻo, biết yêu và biết ghét… Nhưng
đời người ta không chỉ khổ một lần. Mỗi lần cùng đường đất sinh nhai và bán hết mọi thứ
rồi, tôi lại phải bán đi một ít sách của tôi. Sau cùng chỉ còn có năm quyển, tôi nhất định dù
có phải chết cũng không chịu bán. Ấy thế mà tôi cũng bán! Mới cách đây có hơn một tháng
thôi, đứa con nhỏ của tôi bị chứng lị gần kiệt sức… Không! Lão Hạc ơi! Ta có quyền giữ cho
ta một tí gì đâu? Lão quý con chó vàng của lão đã thấm vào đâu với tôi quý năm quyển sách
của tôi…
Tôi nghĩ thầm trong bụng thế. Còn lão Hạc, lão nghĩ gì? Đột nhiên, lão bảo tôi:
- Này! Thằng cháu nhà tôi, đến một năm nay, chẳng có giấy má gì đấy, ông giáo ạ!
À! Thì ra lão đang nghĩ đến thằng con lão. Nó đi cao su năm, sáu năm rồi. Hồi tôi mới về, nó
đã hết một hạn công-ta. Lão Hạc đem thư của nó sang, mượn tôi xem. Nhưng nó xin đăng
thêm một hạn nữa… Lão vội cắt nghĩa cho tôi hiểu tại sao lão đang nói chuyện con chó lại
nhảy vọt sang chuyện thằng con như vậy:
- Con chó là của cháu nó mua đấy chứ!... Nó mua về nuôi, định để đến lúc cưới vợ thì giết
thịt…
Ấy! Sự đời lại cứ thường như vậy đấy. Người ta định rồi chẳng bao giờ người ta làm được.
Hai đứa mê nhau lắm. Bố mẹ đứa con gái biết vậy, nên cũng bằng lòng gả. Nhưng họ thách
nặng quá: nguyên tiền mặt phải một trăm đồng bạc, lại còn cau, còn rượu,... cả cưới nữa thì
mất đến cứng hai trăm bạc. Lão Hạc không lo được. Ý thẳng con lão thì nó muốn bán vườn,
cố lo cho bằng được. Nhưng lão không cho bán. Ai lại bán vườn đi mà lấy vợ? Vả lại bán
vườn đi, thì cưới vợ, về ở đâu? Với lại, nói cho cùng nữa, nếu đằng nhà gái họ cứ khăng
khăng đòi như vậy, thì dẫu có bán vườn đi cũng không đủ cưới. Lão Hạc biết vậy đấy, nhưng
cũng không dám xẵng. Lão tìm lời lẽ giảng giải cho con trai hiểu. Lão khuyên nó hãy dằn
lòng”, bỏ đám này để dùi giắng lại ít lâu, xem có đám nào khác mà nhẹ tiền hơn sẽ liệu;
chẳng lấy đứa này thì lấy đứa khác; làng này đã chết hết con gái đâu mà sợ?... Lạy trời lạy
đất! Nó cũng là thằng khá, nó thấy bố nói thế thì thôi ngay, nó không đả động đến việc cưới
xin nữa. Nhưng nó có vẻ buồn. Và lão biết nó vẫn theo đuổi con kia mãi. Lão thương con
lắm. Nhưng biết làm sao được?... Tháng Mười năm ấy, con kia đi lấy chồng; nó lấy con trai
một ông phó lị…, nhà có của. Thằng con lão sinh phẫn chí. Ngay mấy hôm sau, nó ra tỉnh
đến sở mộ phu, đưa thẻ, kí giấy xin đi làm đồn điền cao su...
Lão rân rấn nước mắt, bảo tôi:
- Trước khi đi, nó còn cho tôi ba đồng bạc, ông giáo ạ! Chả biết nó gửi thẻ xong, vay trước
được mấy đồng, mà đưa về cho tôi ba đồng. Nó đưa cho tôi ba đồng và bảo: “Con biếu thầy
ba đồng để thỉnh thoảng thầy ăn quà; xưa nay con ở nhà mãi cũng chẳng nuôi thầy được bữa
nào, thì con đi cũng chẳng phải lo; thầy bòn vườn5 đất với làm thuê làm mướn thêm cho
người ta thế nào cũng đủ ăn; con đi chuyến này cố chí làm ăn, bao giờ có bạc trăm con mới
về; không có tiền, sống khổ sống sở ở cái làng này, nhục lắm!...”. Tôi chỉ còn biết khóc chứ
còn biết làm sao được nữa? Thẻ của nó, người ta giữ. Hình của nó, người ta đã chụp rồi. Nó
lại đã lấy tiền của người ta. Nó là người của người ta rồi, chứ đâu có còn là con tôi?...
Lão Hạc ơi! Bây giờ thì tôi hiểu tại sao lão không muốn bán con chó vàng của lão. Lão chỉ
còn một mình nó để làm khuây. Vợ lão chết rồi. Con lão đi bằn bặt. Già rồi mà ngày cũng
như đêm, chỉ thui thủi một mình thì ai mà chả phải buồn? Những lúc buồn, có con chó làm
bạn thì cũng đỡ buồn một chút. Lão gọi nó là cậu Vàng như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu
tự. Thỉnh thoảng không có việc gì làm, lão lại bắt rận cho nó hay đem nó ra ao tắm. Lão cho
nó ăn cơm trong một cái bát như một nhà giàu. Lão ăn gì lão cũng chia cho nó cùng ăn.
Những buổi tối, khi lão uống rượu, thì nó ngồi ở dưới chân. Lão cứ nhắm vài miếng lại gắp
cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ. Rồi lão chửi yêu nó, lão nói với nó
như nói với một đứa cháu bé về bố nó. Lão bảo nó thế này:
- Cậu có nhớ bố cậu không, hả cậu Vàng? Bố cậu lâu lắm không có thư về. Bố cậu đi có lẽ
được đến ba năm rồi đấy... Hơn ba năm... Có đến ngót bốn năm... Không biết cuối năm nay
bố cậu có về không? Nó mà về, nó cưới vợ, thì nó giết cậu. Liệu hồn cậu đấy!
Con chó vẫn hếch mõm lên nhìn, chẳng lộ một vẻ gì; lão lừ mắt nhìn trùng trùng vào mắt nó,
to tiếng doạ:
- Nó giết mày đấy! Mày có biết không? Ông cho thì bỏ bố!
Con chó tưởng chủ mắng, vẫy đuôi mừng để lấy lòng chủ. Lão Hạc nạt to hơn nữa:
– Mừng à? Vẫy đuôi à? Vẫy đuôi thì cũng giết! Cho cậu chết
Thấy lão sừng sộ quá, con chó vừa vẫy đuôi vừa chực lảng. Nhưng lão vội nắm lấy nó, ôm
đầu nó, đập nhè nhẹ vào lưng nó và dấu dí.
- À không! À không! Không giết cậu Vàng đâu nhỉ!... Cậu Vàng của ông ngoan lắm! Ông
không cho giết... Ông để cậu Vàng ông nuôi...
Lão buông nó ra để nhấc chén, ghé lên môi uống. Lão ngẩn mặt ra một chút, rồi bỗng nhiên
thở dài. Rồi lão lẩm bẩm tính. Đấy là lão tính tiền bòn vườn của con...
Sau khi thằng con đi, lão tự hỏi rằng: “Cái vườn là của con ta. Hồi còn mồ ma? mẹ nó, mẹ nó
cổ thắt lưng buộc bụng3, dè sẻn mãi, mới để ra được năm mươi đồng bạc tậu. Hồi ấy, mọi
thức còn rẻ cả... Của mẹ nó tậu thì nó hưởng. Lớp trước nó đòi bán, ta không cho bán là ta có
ý giữ cho nó, chứ có phải giữ để ta ăn đâu? Nó không có tiền cưới vợ, phẫn chí bước ra đi,
thì đến lúc có tiền để lấy vợ, mới chịu về. Ta bòn vườn của nó, cũng nên để ra cho nó; đến
lúc nó về, nếu nó không đủ tiền cưới vợ thì ta thêm vào với nó, nếu nó có đủ tiền cưới vợ, thì
ta cho vợ chồng nó để có chút vốn mà làm ăn.... Lão tự bảo lão như thế, và lão làm đúng như
thế. Lão làm thuê để kiếm ăn. Hoa lợi của khu vườn được bao nhiêu, lão để riêng ra. Lão
chắc mẩm” thế nào đến lúc con lão về, lão cũng có được một trăm đồng bạc...
Lão lắc đầu chán nản, bảo tôi:
– Ấy thế mà bây giờ hết nhẵn, ông giáo ạ! Tôi chỉ ốm có một trận đấy thôi. Một trận đúng
hai tháng mười tám ngày, ông giáo ạ! Hai tháng mười tám ngày đã không làm ra được một
xu, lại còn thuốc, lại còn ăn... Ông thử tính ra xem bao nhiêu tiền vào đấy?...
Sau trận ốm, lão yếu người đi ghê lắm. Những công việc nặng không làm được nữa. Làng
mất vé sợi, nghề vải đành phải bỏ. Đàn bà rỗi rãi nhiều. Còn tí việc nhẹ nào, họ tranh nhau
làm mất cả. Lão Hạc không có việc. Rồi lại bão. Hoa màu bị phá sạch sành sanh. Từ ngày
bão đến nay, vườn lão chưa có một tí gì bán. Gạo thì cứ kém mãi đi. Một lão với một con
chó, mỗi ngày ba hào gạo, mà ra sự10 vẫn còn đói deo đói dắt...
– Tính ra cậu Vàng cậu ấy ăn khoẻ hơn cả tôi, ông giáo ạ. Mỗi ngày cậu ấy ăn thế, bỏ rẻ cũng
mất hào rưỡi, hai hào đấy. Cứ mãi thế nảy thì tôi lấy tiền đâu mà nuôi được? Mà cho cậu ấy
ăn ít thì cậu ấy gầy đi, bán hụt tiền, có phải hoài không? Bây giờ cậu ấy béo trùng trục, mua
đắt, người ta cũng thích...
Lão ngắt lại một chút, rồi tặc lưỡi:
– Thôi thì bán phắt đi! Đỡ được đồng nào, hay đồng ấy. Bây giờ tiêu một xu cũng là tiêu vào
tiền của cháu. Tiêu lắm chỉ chết nó. Tôi bây giờ có làm gì được đâu!
Hôm sau, lão Hạc sang nhà tôi. Vừa thấy tôi, lão báo ngay:
- Cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạt
- Cụ bán rồi?
- Bán rồi! Họ vừa bắt xong.
Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước, tôi
muốn ôm choàng lấy lão mà oà lên khóc. Bây giờ thì tôi không xót xa năm quyển sách của
tôi quá như trước nữa. Tôi chỉ ái ngại cho lão Hạc. Tôi hỏi cho có chuyện:
- Thế nó cho bắt à?
Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái
đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu
khóc...
– Khốn nạn... Ông giáo ơi!... Nó có biết gì đâu! Nó thấy tôi gọi thì chạy ngay về, vẫy đuôi
mừng. Tôi cho nó ăn cơm. Nó đang ăn thì thẳng Mục nấp trong nhà, ngay đằng sau nó, tóm
lấy hai cẳng sau nó dốc ngược nó lên. Cứ thế là thắng Mục với thẳng Xiên, hai thằng chúng
nó chỉ loay hoay một lúc đã trói chặt cả bốn chân nó lại. Bấy giờ ca cậu mới biết là cu cậu
chết.... Này! Ông giáo ạ! Cái giống nó cũng khôn! Nó cứ làm in như nó trách tôi; nó kêu ư ử,
nhìn tôi, như muốn bảo tôi rằng: “A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với
tôi như thế này à?". Thì ra tôi giả bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không
ngờ tôi nỡ tâm lửa nó!
Tôi an ủi lão:
- Cụ cứ tưởng thế đấy chứ nó chả hiểu gì đâu! Vả lại, ai nuôi chó mà chả bán hay giết thịt! Ta
giết nó chính là hoá kiếp cho nó đẩy, hoá kiếp để cho nó làm kiếp khác.
Lão chua chút bảo
Ông giáo nói phải! Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hoá kiếp cho nó để nó làm kiếp người,
may ra có sung sướng hơn một chút... kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn....
Tôi bùi ngùi nhìn lão, bảo:
- Kiếp ai cũng thế thôi, cụ ạ! Cụ tưởng tôi sung sướng hơn chăng?
− Thế thì không biết nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng?
Lão cười và họ sòng sọc. Tôi nắm lấy cái vai gầy của lão, ôn tồn bảo:
– Chẳng kiếp gì sung sướng thật, nhưng có cái này là sung sướng: Bây giờ cụ ngồi xuống
phản này chơi, tôi đi luộc mấy củ khoai lang, nấu một ấm nước chè tươi thật đặc; ông con
mình ăn khoai, uống nước chè, rồi hút thuốc lào... Thế là sướng.
– Vâng! Ông giáo dạy phải! Đối với chúng mình thì thế là sung sướng.
Lão nói xong lại cười đưa đà". Tiếng cười gượng nhưng nghe đã hiền hậu lại. Tôi vui vẻ bào:
– Thế là được, chứ gì? Vậy cụ ngồi xuống đây, tôi di luộc khoai, nấu nước.
– Nói đùa thế, chứ ông giáo cho để khi khác...
– Việc gì còn phải chờ khi khác?... Không bao giờ nên hoãn sự sung sướng lại.
Cụ cứ ngồi xuống đây! Tôi làm nhanh lắm...
- Đã biết, nhưng tôi còn muốn nhờ ông một việc...
Mặt lão nghiêm trang lại...
– Việc gì thế, cụ?
− Ông giáo để tôi nói.... Nó hơi dài dòng một ti.
— Vâng, cụ nói.
– Nó thế này, ông giáo ạ!...
Và lão kể. Lão kể nhỏ nhẻ và dài dòng thật. Nhưng đại khái2 có thể rút vào hai việc. Việc
thứ nhất: Lão thì già, con đi vắng, vả lại nó cũng còn dại lắm, nếu không có người trông nom
cho thì khó mà giữ được vườn đất để làm ăn ở làng này; tôi là người nhiều chữ nghĩa, nhiều
lí luận, người ta kiêng nể, vậy lão muốn nhờ tôi cho lão gửi ba sào vườn của thằng con lão;
lão viết văn tự nhượng cho tôi để không ai còn tơ tưởng 1 dòm ngó đến; khi nào con lão về
thì nó sẽ nhận vườn làm, nhưng văn tự cứ để tên tôi cũng được, để thể để tôi trông coi cho
nó... Việc thứ hai: Lão già yếu lắm rồi, không biết sống chết lúc nào, con không có nhà, lỡ
chết không biết ai đứng ra lo cho được; để phiền cho hàng xóm thi chết không nhắm mắt; lão
còn được hãm nhãm đồng bạc với năm đồng bạc vừa bán chó là ba mươi đồng bạc, muốn gửi
tôi, để lỡ có chết thì tôi đem ra, nói với hàng xóm giúp, gọi là của lão có tí chút, còn bao
nhiêu đành nhờ hàng xóm cả....
Tôi bật cười bảo lão:
– Sao cụ lo xa quá thế? Cụ còn khoẻ lắm, chưa chết đâu mà sợ! Cụ cứ để tiền ấy mà ăn, lúc
chết hãy hay! Tội gì bây giờ nhịn đói mà tiền để lại?
– Không, ông giáo ạ! Ăn mãi hết đi thì đến lúc chết lấy gì mà lo liệu?
– Đã đành rằng là thế, nhưng tôi bòn vườn của nó bao nhiêu, tiêu hết cả. Nó vợ con chưa có.
Ngộ nó không lấy gì lo được, lại bán vườn thì sao?... Tôi cắn rơm cắn cỏ, tôi lạy ông giáo!
Ông giáo có nghĩ cái tình tôi già nua tuổi tác mà thương thì ông giáo cứ cho tôi gửi.
Thấy lão nằn nì mãi, tôi đành nhận vậy. Lúc lão ra về, tôi còn hỏi:
– Có đồng nào, cụ nhặt nhạnh đưa cho tôi cả thì cụ lấy gì mà ăn?
Lão cười nhạt bảo:
– Được ạ! Tôi đã liệu dâu vào đấy... Thế nào rồi cũng xong.
Luôn mấy hôm, tôi thấy lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết. Bắt đầu từ đẩy, lão chế
tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn
rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bừa trai, bữa ốc. Tôi nói chuyện lão với vợ tôi.
Thị gạt phắt đi:
- Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ! Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ! Nhà
mình sung sướng gì mà giúp lão? Chính con minh cũng đói...
Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ
gần dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi,... toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ
ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương... Vợ tôi không ác, nhưng
thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cải chân đau của mình để nghĩ đến
một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa.
Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất. Tôi biết vậy,
nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận. Tôi giấu giếm vợ tôi, thỉnh thoảng giúp ngấm ngầm lão
Hạc. Nhưng hình như lão cũng biết vợ tôi không ưng giúp lão. Lão từ chối tất cả những cái
gì tôi cho lão. Lão từ chối một cách gần như là hách dịch. Và lão cứ xa tôi dần dần...
Lão không hiểu tôi, tôi nghĩ vậy, và tôi càng buồn lắm. Những người nghèo nhiều tự ái vẫn
thường như thế. Họ dễ tủi thân nên rất hay chạnh lòng. Ta khó mà ở cho vừa ý họ... Một
hôm, tôi phản nản về việc ấy với Binh Tư. Binh Tư là một người láng giềng khác của tôi.
Hắn làm nghề ăn trộm nên vốn không ưa lão Hạc bởi vì lão lương thiện quá. Hắn bĩu môi và
bảo:
− Lão làm bộ đấy! Thật ra thi lão chỉ tâm ngẫm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu: lão
vừa xin tôi một ít bả chó...
Tôi trổ to đôi mắt, ngạc nhiên. Hắn thì thầm:
- Lão bào có con chó nhà nào cứ đến vườn nhà lão... Lão định cho nó xơi một bữa. Nếu
trúng, lão với tôi uống rượu.
Hỡi ơi lão Hạc! Thì ra đến lúc cùng lão cũng có thể làm liều như ai hết… Một người như thế
ấy!... Một người đã khóc vì trót lừa một con chó!... Một người nhịn ăn để tiền lại làm ma, bởi
không muốn liên lụy đến hàng xóm, láng giềng… Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo
gót Binh Tư để có ăn ư? Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn….
Không! Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một
nghĩa khác. Tôi ở nhà Binh Tư về được một lúc lâu thì thấy những tiếng nhốn nháo ở bên
nhà lão Hạc. Tôi mải mốt chạy sang. Mấy người hàng xóm đến trước tôi đang xôn xao ở
trong nhà. Tôi xồng xộc chạy vào. Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần
áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị
giật mạnh một cái, nảy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật
vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết. Cái chết thật là dữ dội. Chẳng ai hiểu lão chết vì bệnh gì
mà đau đớn và bất thình lình như vậy. Chỉ có tôi với Binh Tư hiểu.
Nhưng nói ra làm gì nữa! Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt! Lão đừng lo gì cho
cái vườn của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão. Đến khi con trai lão về, tôi sẽ trao lại cho hắn và
bảo hắn: “Đây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn; cụ thà
chết chứ không chịu bán đi một sào…”
I. Tác giả văn bản Lão Hạc
- Nam Cao (1917- 1951) tên khai sinh là Trần Hữu Tri
- Quê quán: làng Đại Hoàng, phủ Lí Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lí Nhân), tỉnh Hà
Nam.
- Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác:
+ Năm 1941, ông có tập truyện đầu tay là Đôi lứa xứng đôi, tên trong bản thảo là Cái lò gạch
cũ rất được đón nhận, sau đó đã được dổi tên là Chí Phèo.
+ Tháng 4 năm 1943, Nam Cao gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc và là một trong số những
thành viên đầu tiên
+ Đến năm 1946, ông ra Hà Nội hoạt động trong Hội Văn hóa Cứu quốc
+ Năm 1950 Nam Cao làm việc ở Hội Văn nghệ Việt Nam và làm việc trong toà soạn tạp chí
Văn nghệ.
+ Ông được nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật vào năm 1996.
+ Những tác phẩm tiêu biểu: Chí Phèo, Cái chết của con Mực, Con mèo…
- Phong cách sáng tác: Ông là một nhà văn hiện thực xuất sắc viết về người nông dân nghèo
đói bị vùi dập và những người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ
II. Tìm hiểu chung về tác phẩm Lão Hạc
1. Hoàn cảnh sáng tác tác phẩm Lão Hạc
- Lão Hạc là một truyện ngắn xuất sắc của Nam Cao viết về người nông dân ở xã hội phong
kiến cũ, đăng báo lần đầu năm 1943
2. Bố cục tác phẩm Lão Hạc
- Phần 1 (Từ đầu đến …nó thế này ông giáo ạ): Sự day dứt, dằn vặt của lão Hạc sau khi bán
con Vàng.
- Phần 2 (Tiếp theo đến … một thêm đáng buồn): Lão Hạc gửi gắm tiền bạc, trông nom nhà
cửa.
- Phần 3 (Còn lại): Cái chết của lão Hạc.
3. Tóm tắt tác phẩm Lão Hạc
Lão Hạc có một người con trai, một mảnh vườn và một con chó vàng. Con trai lão đi phu
đồn điền cao su, lão chỉ còn lại cậu Vàng. Vì muốn giữ lại mảnh vườn cho con, lão đành phải
bán con chó, mặc dù hết sức buồn bã và đau xót. Lão mang tất cả tiền dành dụm được gửi
ông giáo và nhờ trông coi mảnh vườn. Cuộc sống mỗi ngày một khó khăn, lão kiếm được gì
ăn nấy và từ chối cả những gì ông giáo giúp. Một hôm lão xin Binh Tư ít bả chó, nói là để
giết con chó hay đến vườn, làm thịt và rủ Binh Tư cùng uống rượu. Ông giáo rất buồn khi
nghe Binh Tư kể chuyện ấy. Nhưng rồi lão bỗng nhiên chết- cái chết thật dữ dội. Cả làng
không hiểu vì sao lão chết, chỉ có Binh Tư và ông giáo hiểu.
4. Phương thức biểu đạt tác phẩm Lão Hạc
- Tác phẩm Lão Hạc sử dụng phương thức biểu đạt: Tự sự.
5. Thể loại tác phẩm Lão Hạc
- Tác phẩm Lão Hạc thuộc thể loại: Truyện ngắn
6. Ngôi kể
- Tác phẩm Lão Hạc sử dụng ngôi kể: Ngôi thứ nhất.
7. Giá trị nội dung tác phẩm Lão Hạc
Thể hiện số phận đau thương của người nông dân trong xã hội cũ và phẩm chất cao quý, tiềm
tàng của họ. Đồng thời, truyện còn cho thấy tấm lòng yêu thương, trân trọng đối với người
nông dân.
8. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Lão Hạc
- Sử dụng ngôi kể thứ nhất, người kể là nhân vật hiểu, chứng kiến toàn bộ câu chuyện và
cảm thông với nhân vật chính.
- Nghệ thuật phân tích tâm lí xuất sắc, kể chuyện chân thực, màu sắc trữ tình đan xen triết lí
sâu sắc.
- Xây dựng được nhân vật có tính cá thể hóa cao.
III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm
Lão Hạc
1. Tình cảnh Lão Hạc
- Nhà nghèo, vợ chết con trai bỏ đi đồn điền cao su
- Làm thuê để kiếm ăn.
- Sau ốm: tiêu hết tiền dành dụm ... không có việc, bán chó
-> Cuộc sống nghèo khổ, cùng quẫn và cô đơn
=> Lớp người nông dân nghèo khổ trước CMT8
2. Tình cảm của Lão Hạc dành cho con trai và cho cậu Vàng
a, Tình cảm của lão Hạc đối với con trai và phẩm chất của lão.
- Nhờ ông giáo:
+ Giữ hộ ba sào vườn cho con trai.
+ Gửi 30 đồng để lo hộ đám tang cho mình.
=> Lão là người cha tốt, cao thượng giàu đức hi sinh.
=> Người nông dân nghèo nhưng có lòng tự trọng cao.
b. Tình cảm của Lão Hạc đối với “cậu Vàng”.
- Trước khi bán con chó Vàng
+ Nói với ông giáo về ý định bán chó
+ Lão phải suy tính, đắn đo nhiều lần, coi đó là việc rất hệ trọng.
- Sau khi bán con Vàng:
+ Cố làm ra vui vẻ, cười như mếu, mắt ầng ậc nước, mặt co rúm lại, vết nhăn xô lại, ép nước
mắt chảy ra, đầu ngoẹo về một bên, mếu như con nít, hu hu khóc.
+ Sử dụng các từ tượng hình, tượng thanh, động từ có sức gợi tả cao, biểu hiện chân thực, cụ
thể, chính xác, đặc tả ngoại hình đầy ấn tượng.
+ Thể hiện một sự ngậm ngùi, chua chát, nỗi đau đớn, hối hận, xót xa, sự thương tiếc, nỗi
buồn và sự bất lực trước cảnh sống hiện tại cùng cực.
=> Là con người sống tình nghĩa, thuỷ chung, một người cha yêu thương con sâu sắc muốn
dành dụm tất cả những gì có thể cho con để con có một cuộc sống hạnh phúc, một con người
có nhân cách cao quí.
3. Cái chết của Lão Hạc
- Lão Hạc chuẩn bị cho cái chết của mình:
+ Làm văn tự, nhờ ông giáo trông nom hộ 3 sào vườn để khi con về sẽ có đất ở, có vườn
làm... văn tự để tên ông giáo, về sau này nhờ ông giáo trông nom cho con ông.
+ Gửi ông giáo 30 đồng bạc để khi lão chết nhờ hàng xóm chi tiêu lo hộ việc ma chay.
- Chuẩn bị âm thầm, chu đáo.
+ Lão Hạc chủ động và tự nguyện tìm đến cái chết.
=> Là một người cha hết lòng vì con. Là người sống chu đáo, giàu lòng tự trọng.
- Cách xây dựng tình huống truyện đầy bất ngờ, có tác dụng “đánh lừa”...
- Lão Hạc vật vã, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc, tru tréo, bọt mép
sùi ra...
+ Một loạt các từ tượng hình và tượng thanh liên tiếp gợi tả về một cái chết dữ dội và thê
thảm...
+ Tình huống truyện được đẩy lên đến đỉnh điểm.
+ Lão tự giải thoát bằng cách tự trừng phạt mình.
* Nguyên nhân về cái chết của lão Hạc
- Do tình cảnh đói khổ, túng quẫn.
- Xuất phát từ từ tình yêu thương, trách nhiệm với con, từ lòng tự trọng đáng kính.
- Thực trạng xã hội thực dân phong kiến đương thời
=> Phản ánh số phận đau thương và phẩm chất cao quý tiềm tàng của người nông dân nghèo
trước cách mạng tháng Tám.
=> Lão Hạc là một nhân vật lương thiện, bị bần cùng hoá nên phải chọn cái chết thảm
thương, đau đớn. Đó là một người cha giàu lòng yêu thương con, một người tình nghĩa thủy
chung, trung thực, là một tâm hồn, một tính cách cao thượng, một nhân cách cao cả.
- Cách xây dựng tình huống truyện đầy bất ngờ, có tác dụng “đánh lừa”...
V. Dàn ý tác phẩm Lão Hạc
I. Mở bài
- Vài nét về tác giả Nam Cao: Nhà văn hiện thực xuất sắc
- Khái quát về tác phẩm Lão Hạc: thể hiện sự chân thực và cảm động về số phận đau thương
của người nông dân trong xã hội phong kiến cũ và ca ngợi những phẩm chất cao quí của họ
thông qua hình tượng nhân vật Lão Hạc
II. Thân bài
1. Nhân vật lão Hạc
a. Tình cảnh Lão Hạc
- Một lão nông già yếu, cô đơn
⇒
tình cảnh bi đát
- Vì nghèo, lão dự định bán đi cậu Vàng – kỉ vật của anh con trai, người bạn thân thiết của
bản thân mình - và chọn con đường kết thúc cho mình.
b. Diễn biến tâm trạng lão Hạc quanh việc bán cậu Vàng
- Cậu Vàng là con chó của lão Hạc rất yêu quý :
+ Cho ăn trong một bát lớn như của nhà giàu ; ăn gì cũng gắp cho nó cùng ăn
+ Rỗi rãi thì đem nó ra ao tắm, bắt rận cho nó
+ Mỗi khi uống rượu lão nhắm vài miếng thì lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp
thức ăn cho cháu
+ Thường xuyên tâm sự với nó về bố nó, rồi thủ thỉ, âu yếm
- Quyết định bán đi con chó Vàng là một việc làm rất khó khăn, một việc hệ trọng
⇒
đắn đo,
do dự, suy tính mãi
- Tâm trạng, biểu hiện khi bán chó :
+ Lão cười như mếu, đôi mắt ầng ậng nước
+ Mặt lão đột nhiên co rúm lại, vết nhăn xô lại với nhau ép cho nước mắt chảy ra, + Đầu
ngoẹo về một bên, miệng móm mém mếu như con nít
+ Lão hu hu khóc.
⇒
Sử dụng từ tượng hình, từ tượng thanh dày đặc, liên tiếp
⇒
vô cùng đau khổ đang hối hận,
xót xa, thương tiếc dâng trào.
⇒
Lão Hạc là một người nông dân sống có tình có nghĩa, thủy chung, rất mực trung thực
⇒
Tấm lòng thương yêu con của một người cha nghèo khổ.
c. Cái chết của lão Hạc
- Lão nhờ ông giáo 2 việc:
+ Trông nom hộ mảnh vườn, khi nào con trai lão về thì giao lại cho nó
+ Mang hết tiền giành dụm nhờ ông giáo và bà con chòm xóm làm ma cho nếu lão chết đi.
- Nguyên nhân: Ý thức sâu sắc, rõ ràng hoàn cảnh cùng đường, không có lối thoát của mình.
- Mục đích: Bảo toàn tài sản cho con và không muốn phiền hà đến bà con hàng xóm.
- Vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, mắt long sòng sọc, lão tru tréo, bọt
mép sùi ra.... người lão chốc chốc lại giật mạnh....vật vã đến hai giờ đồng hồ mới chết
⇒
Sử dụng dày đặc và liên tiếp các từ tượng hình, tượng thanh
⇒
Làm nổi bật cái chết dữ
dội, thê thảm đầy bất ngờ của lão Hạc
⇒
Là người có ý thức cao về lẽ sống, trọng danh dự làm người hơn cả sự sống; một người
cha hết lòng thương con, một người nông dân trung thực, thật thà, giàu lòng tự trọng.
2. Nhân vật ông giáo
- Có cùng nỗi khổ của sự nghèo túng; có cùng nỗi đau phải bán đi những thứ mà mình yêu
quí nhât
- Thông cảm, thương xót cho hoàn cảnh của lão Hạc, tìm mọi cách an ủi, giúp đỡ lão.
- Ông là người hiểu đời hiểu người, có tấm lòng vị tha cao cả
⇒
Ông giáo là người trí thức chân chính, trọng nhân cách, không mất đi lòng tin vào những
điều tốt đẹp ở con người.