Khi nhắc đến ẩm thực của xứ sở Hàn Quốc, ta sẽ nghĩ ngay đến món kim chi cay xé lưỡi. Khi nói đến ẩm thực của vương quốc kinh đô ánh sáng thơ mộng( Paris- Pháp), ta không thể nào quên được món phô mai hay những chiếc bánh mì thơm phức, giòn tan. Và khi nhắc tới nền ẩm thực của Việt Nam, đặc biệt vào những dịp lễ Tết, ta hẳn không thể nào không nhắc tới món bánh chưng, món bánh vừa ngậy, vừa dẻo cùng với gạo nếp, thịt lợn và đặc biệt là đậu xanh. Người xưa từng nói:
“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ.
Cây nêu, tràng pháo , bánh chưng xanh.”
Bánh chưng quả thật là môt món ăn không thể thiếu trong ngày Tết cổ truyền của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở.
Chuyện rằng trong dịp đầu năm mới, vua Hùng đời thứ VI muốn truyền ngôi cho các hoàng tử, liền truyền ý chỉ là: trong các người con nếu ai có món quà vừa ý trẫm (ý vua) sẽ truyền lại ngôi báu cho người đó. Các hoàng tử liền tìm đủ các món sơn hà,hải vị, các của cải châu báu quí hiếm làm quà dâng tặng vua cha. Duy chỉ có Lang Liêu là hoàng tử thứ 18 từ lâu mất mẹ không biết nên chọn món quà nào. Rồi một đêm Lang Liêu nằm mơ có vị thần đến bảo "Trời đất không có gì quý bằng hạt gạo hãy lấy gạo nặn thành hình tròn và vuông tượng trưng cho đất và trời, nhân bánh tựa công ơn sinh thành cha mẹ". Khi dâng lên vua, vua vô cùng vui mừng và đã truyền ngôi lại cho Lang Liêu. Món bánh chưng và bánh dày có nguồn gốc chính là từ đây.
Theo quan niệm phổ biến hiện nay, cùng với bánh tét miền Nam, bánh chưng tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ của người Việt xưa. Bánh có màu xanh lá cây, hình vuông, được coi là đặc trưng cho đất trong tín ngưỡng của người Việt cổ và các dân tộc khác trong khu vực châu Á.
Gói và nấu bánh chưng, ngồi canh nồi bánh chưng trên bếp lửa đã trở thành một tập quán, văn hóa sống trong các gia đình người Việt mỗi dịp tết đến xuân về. Bước đầu là chuyển bị những nguyên liệu để gói bánh. Nhìn chiếc bánh chưng, ta thấy mộc mạc, giản dị vô cùng, nhưng để làm ra nó lại tốn không ít công phu. Chúng ta phải đi chợ sớm để mua lá dong cùng với mấy bó lạt giang. Và lá dong phải to bản, lành lặn, Thường là lá dong bánh tẻ, không già, không non thì gói bánh mới đẹp. Nhất là lạt giang chẻ sẵn phải mỏng và mềm, màu vàng ngà, rất ăn ý với lá dong xanh.Chuẩn bị gạo nếp cái hoa vàng vừa dẻo vừa thơm, được ngâm từ đêm trước, đem xả rồi xóc cho ráo nước. Nguyên liệu thứ 2 là đậu xanh đãi sạch vỏ từ trước. Tiếp là thịt lợn xắt miếng to cỡ nửa bàn tay gớp muối, tiêu, hành cho thấm. Lá dong đã được cắt cuống, rửa sạch, lau khô… Ngoài ra khi gói bánh, ta cần thêm những nguyên liệu khác như muối, hạt tiêu, đường, bột ngọt… Tất cả bày sẵn ra chiếc nong, chờ người gói.
Thông thường, ta trải lá ra mâm, đong một bát gạo đổ vào, dàn đều rồi đổ nửa bát đỗ, xếp hai miếng thịt, lại thêm nửa bát đỗ, một bát gạo nữa. Tiếp đó, khéo léo đãi gạo nếp che kín đỗ và thịt rồi nhẹ nhàng bẻ bốn góc lá cho vuông vức, sau đó xiết chặt từng chiếc lạt. Chẳng mấy chốc, chiếc bánh chưng đã được gói xong. Ngày này thì còn đơn giản hơn rất nhiều vì đã có khuôn gói bánh, ta chỉ cần cắt tỉa lá đúng như cái khuôn và làm theo những gì ở trên, bánh gói bằng khuôn cũng sẽ chặt và rất đều nhau.
Bước tiếp theo là công đoạn nấu bánh. Thường thì dân chân quê hay nấu bánh chưng vào đêm ba mươi Tết. Phía góc sân, bốp lửa đã cháy đều. Những gộc tre, gộc củi khô tích trữ quanh năm giờ được đem ra đun. Ngọn lửa nhảy nhót réo ù ù, tàn than tí tách bắn ra xung quanh những chấm đỏ rực trông thật vui mắt. ông tôi bảo phải đun cho lửa cháy thật đều thì bánh mới rền, không bị hấy. Anh em tôi xúm xít bên ông, vừa hơ tay cho khỏi cóng, vừa nghe ông kể chuyện ngày xửa ngày xưa. Đến những đoạn thú vị, ông cười khà khà, rung cả chòm râu bạc.
Sau khi luộc xong, vớt bánh ra rửa sạch lá trong nước lạnh cho hết nhựa, để ráo. Xếp bánh thành nhiều lớp, dùng vật nặng đè lên để ép bánh cho ra nước, chắc mịn (tục gọi là để cho rền bánh) và phẳng đều trong vài giờ. Hoàn tất công đoạn ép bánh, bánh được treo lên chỗ khô ráo trong nhà để bảo quản. Bánh thường được treo ở nơi thoáng mát, không bụi bặm, ẩm thấp để tránh bị mốc và ôi thiu, tùy thời tiết có thể để được hàng tháng trời không hỏng.
Nấu một hồi tầm 8 tiếng, xếp rải ra trên chiếc chõng tre ngoài hiên. Hơi nóng từ bánh bốc lên nghi ngút, toả ra một mùi thơm ngậy, nồng nàn. Khó có thể tả nổi niềm sung sướng, hân hoan của lũ trẻ khi được nếm chiếc bánh chưng nhỏ xỉnh, nóng hổi, cùng với đó là thời khắc giao thừa sắp tới. Nếp dẻo, đỗ bùi, thịt béo… ngon quá là ngon! Tưởng chừng như chẳng có thứ bánh nào ngon hơn thế! Bánh chưng thường được ăn cùng với dưa hành, nước mắm, xì dầu rắc chút bột tiêu. Ra sau tết, bánh có thể bị lại gạo, bị cứng, khi đó người ta thường đem rán vàng trong chảo mỡ và ăn kèm với dưa góp. Bánh chưng cũng có thể được chấm với mật mía, đặc biệt ở một số tỉnh Bắc Trung Bộ như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Đồng dao Việt Nam có câu:
"...Lấy đôi đũa đỏ
Cho thầy gãi lưng.
Bóc đồng bánh chưng
Cho thầy chấm mật…”
Chiều ba mươi Tết, trên bàn thờ đèn nến sáng trưng, hương trầm nghi ngút, những cặp bánh chưng xanh được trân trọng bày bên cạnh đĩa ngũ quả, hộp trà, hộp mứt, chai rượu… và mâm cỗ tất niên để cúng trời đất, tổ tiên, đón các cụ về ăn Tết cùng con cháu. Không tả hết được nỗi xúc động rưng rưng trong lòng mỗi người. Không khí thiêng liêng của ngày Tết thực sự bắt đầu với món ăn mang đậm nét văn hóa truyền thống của dân tộc Việt – Bánh chưng.